Sàng lọc ung thư cổ tử cung là gì? Các công bố khoa học về Sàng lọc ung thư cổ tử cung

Sàng lọc ung thư cổ tử cung là quá trình sử dụng các phương pháp, kiểm tra và xét nghiệm để phát hiện sớm những biểu hiện ban đầu của ung thư cổ tử cung. Mục đí...

Sàng lọc ung thư cổ tử cung là quá trình sử dụng các phương pháp, kiểm tra và xét nghiệm để phát hiện sớm những biểu hiện ban đầu của ung thư cổ tử cung. Mục đích của quá trình sàng lọc này là để phát hiện ung thư ngay từ khi nó còn ở giai đoạn đầu, khi chưa gây ra triệu chứng rõ ràng. Phương pháp sàng lọc ung thư cổ tử cung thường bao gồm việc kiểm tra tầm soát tế bào cổ tử cung (Pap test) và/hoặc xét nghiệm HPV (Human papillomavirus), virus gây ra hầu hết các trường hợp ung thư cổ tử cung.
Cụ thể hơn, dưới đây là những phương pháp sàng lọc ung thư cổ tử cung phổ biến:

1. Kiểm tra tầm soát tế bào cổ tử cung (Pap test): Đây là phương pháp thông thường được sử dụng để phát hiện sớm các tế bào bất thường trong cổ tử cung. Trong quá trình Pap test, bác sĩ sẽ thu thập một mẫu tế bào từ cổ tử cung của người phụ nữ và gửi đi xét nghiệm. Kết quả sẽ cho biết xem có tế bào bất thường, có dấu hiệu ung thư hay không.

2. Xét nghiệm HPV (Human papillomavirus): HPV là một virus gây ra hầu hết các trường hợp ung thư cổ tử cung. Xét nghiệm HPV sẽ kiểm tra có mặc nhiễm virus HPV hay không. Nếu kết quả là dương tính cho HPV, có thể tại nguyên là một yếu tố nguy cơ cao để phát triển ung thư cổ tử cung.

3. Sàng lọc hình ảnh: Đối với những phụ nữ có kết quả không bình thường từ Pap test hoặc xét nghiệm HPV, bác sĩ có thể đề xuất các phương pháp hình ảnh như siêu âm, MRI (magnetic resonance imaging) hay xét nghiệm giải phẫu tế bào để xác định chính xác hơn hiện trạng của cổ tử cung.

4. Sàng lọc mô học: Trong trường hợp mẫu tế bào bị nghi ngờ hoặc không rõ ràng từ Pap test, bác sĩ có thể đề nghị thực hiện sàng lọc mô học như bệnh lý học hoặc phôi thai học để xác định chẩn đoán và xử lý kịp thời.

Sàng lọc ung thư cổ tử cung đóng vai trò quan trọng trong việc phát hiện sớm ung thư và giảm nguy cơ tử vong. Quy trình sàng lọc thường được đề xuất và thực hiện định kỳ đối với phụ nữ từ độ tuổi 21 trở lên hoặc theo hướng dẫn của nhà y tế.
Tùy thuộc vào quy định và hướng dẫn của mỗi quốc gia, quá trình sàng lọc ung thư cổ tử cung có thể khác nhau. Dưới đây là chi tiết hơn về các phương pháp sàng lọc ung thư cổ tử cung:

1. Kiểm tra tầm soát tế bào cổ tử cung (Pap test):
- Chuẩn bị: Phụ nữ không nên có tình dục, không sử dụng kem tránh thai hoặc tampon trong 48 giờ trước khi thực hiện Pap test.
- Quy trình thực hiện: Bác sĩ sẽ sử dụng một công cụ nhỏ (cọ) để thu thập một số tế bào từ cổ tử cung và vùng ngoài âm đạo của bệnh nhân. Mẫu tế bào sau đó sẽ được gửi đến phòng thí nghiệm để xem xét.
- Kết quả: Kết quả Pap test có thể được chia thành các nhóm như bình thường, tế bào bất thường, kháng sinh hoặc vi khuẩn, ung thư hoặc biểu hiện tiền ung thư. Kết quả sẽ quyết định liệu bệnh nhân có cần theo dõi thêm hoặc tiến hành xét nghiệm và xử lý tiếp theo.

2. Xét nghiệm HPV (Human papillomavirus):
- Chuẩn bị: Đối với xét nghiệm HPV, không yêu cầu các biện pháp đặc biệt.
- Quy trình thực hiện: Bác sĩ sẽ thu thập một mẫu tế bào từ cổ tử cung hoặc âm đạo để xác định có mặc nhiễm virus HPV hay không. Một số phương pháp xét nghiệm HPV cũng có thể phát hiện loại HPV cụ thể.
- Kết quả: Kết quả xét nghiệm HPV có thể là âm tính (không có virus HPV) hoặc dương tính (có mặc nhiễm virus HPV). Kết quả này sẽ ảnh hưởng đến lịch trình xét nghiệm và xử lý tiếp theo.

3. Sàng lọc hình ảnh:
- Chuẩn bị: Quy trình sàng lọc hình ảnh, bao gồm siêu âm hoặc MRI, không yêu cầu các biện pháp đặc biệt.
- Quy trình thực hiện: Kỹ thuật viên hình ảnh sẽ thực hiện siêu âm hoặc MRI để tạo ra hình ảnh chi tiết về cổ tử cung, các cấu trúc lân cận và xác định hiện trạng của những vùng nghi ngờ.
- Kết quả: Kết quả sàng lọc hình ảnh sẽ cung cấp thông tin về kích thước, hình dạng và đặc điểm của cổ tử cung. Nếu có bất thường nghi ngờ, bác sĩ có thể đề xuất các xét nghiệm và xử lý tiếp theo.

Quá trình sàng lọc ung thư cổ tử cung thường được thực hiện định kỳ, tùy thuộc vào quy định của từng quốc gia và hướng dẫn của nhà y tế. Phụ nữ nên tham gia vào các chương trình sàng lọc như Pap test và xét nghiệm HPV để tìm ra sớm các dấu hiệu bất thường trong cổ tử cung và giảm nguy cơ tử vong do ung thư cổ tử cung.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "sàng lọc ung thư cổ tử cung":

Hướng dẫn sàng lọc của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, Hiệp hội Cổ tử cung và Bệnh lý Cổ tử cung, và Hiệp hội Bệnh lý Lâm sàng Hoa Kỳ trong việc phòng ngừa và phát hiện sớm ung thư cổ tử cung Dịch bởi AI
Ca-A Cancer Journal for Clinicians - Tập 62 Số 3 - Trang 147-172 - 2012
Tóm tắt

Bài báo này cập nhật hướng dẫn của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (ACS) liên quan đến việc sàng lọc phát hiện sớm các tổn thương tiền ung thư cổ tử cung và ung thư. Hướng dẫn dựa trên một đánh giá bằng chứng hệ thống, sự đóng góp của 6 nhóm làm việc và một hội nghị gần đây được đồng tài trợ bởi ACS, Hiệp hội Cổ tử cung và Bệnh lý Cổ tử cung, và Hiệp hội Bệnh lý Lâm sàng Hoa Kỳ, với sự tham gia của 25 tổ chức. Những khuyến nghị mới về sàng lọc đưa ra các chiến lược sàng lọc phù hợp với độ tuổi, bao gồm việc sử dụng tế bào học và xét nghiệm human papillomavirus (HPV) có nguy cơ cao, theo dõi (ví dụ: quản lý các trường hợp dương tính sàng lọc và khoảng thời gian sàng lọc cho các trường hợp âm tính) của phụ nữ sau khi sàng lọc, độ tuổi ngừng sàng lọc, những xem xét trong tương lai liên quan đến việc xét nghiệm HPV đơn độc như một phương pháp sàng lọc chính, và các chiến lược sàng lọc cho phụ nữ đã được tiêm vaccine chống lại nhiễm HPV16 và HPV18. CA Cancer J Clin 2012. © 2012 Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ.

Mối Quan Hệ Giữa Tình Trạng Kinh Tế - Xã Hội Khu Vực và Việc Sàng Lọc Ung Thư Vú, Cổ Tử Cung và Đại Tràng: Một Tổng Quan Hệ Thống Dịch bởi AI
Cancer Epidemiology Biomarkers and Prevention - Tập 18 Số 10 - Trang 2579-2599 - 2009
Tóm tắt

Giới thiệu: Mặc dù có nhiều nghiên cứu đã xem xét mối liên hệ giữa tình trạng kinh tế - xã hội khu vực (SES) và việc sàng lọc ung thư sau khi đã kiểm soát SES cá nhân, các phát hiện vẫn không đồng nhất. Một tổng quan hệ thống về các nghiên cứu hiện có là cần thiết để xác định các hạn chế về khái niệm và phương pháp cũng như cung cấp cơ sở cho những hướng nghiên cứu và chính sách trong tương lai.

Mục tiêu: Mục tiêu là (a) mô tả thiết kế nghiên cứu, cấu trúc, phương pháp và các thước đo; (b) mô tả mối liên hệ độc lập giữa SES khu vực và việc sàng lọc ung thư; và (c) xác định các lĩnh vực nghiên cứu còn bỏ ngỏ.

Phương pháp: Chúng tôi đã tìm kiếm sáu cơ sở dữ liệu điện tử và thực hiện tìm kiếm thủ công các bài báo đã được trích dẫn và đang được trích dẫn. Các nghiên cứu đủ tiêu chuẩn được công bố trước năm 2008 trong các tạp chí đánh peer bằng tiếng Anh, đại diện cho dữ liệu chính về những cá nhân từ 18 tuổi trở lên ở các quốc gia phát triển, và đo lường mối liên hệ giữa SES khu vực và cá nhân với việc sàng lọc ung thư vú, cổ tử cung hoặc đại trực tràng.

Kết quả: Trong 19 nghiên cứu đủ tiêu chuẩn, phần lớn đo lường việc sàng lọc ung thư vú. Các nghiên cứu có sự khác biệt lớn về thiết kế nghiên cứu, định nghĩa và thước đo SES, hành vi sàng lọc ung thư và các biến đồng mắc. Tám nghiên cứu sử dụng hồi quy logistic đa cấp, trong khi phần còn lại phân tích dữ liệu bằng hồi quy logistic đơn cấp tiêu chuẩn. Phần lớn các nghiên cứu đo lường một hoặc hai chỉ số của SES khu vực và cá nhân; các chỉ số thường gặp ở cả hai cấp độ này là nghèo đói, thu nhập và giáo dục. Không có mô hình nhất quán trong mối liên hệ giữa SES khu vực và việc sàng lọc ung thư.

#tình trạng kinh tế - xã hội #mối liên hệ #sàng lọc ung thư #nghiên cứu tổng quan #nghiên cứu phương pháp
Xét nghiệm HPV trong sàng lọc ung thư cổ tử cung: cập nhật 2014
Tạp chí Phụ Sản - Tập 12 Số 2 - Trang 8-14 - 2014
Mặc dù vaccin HPV đã và đang được đưa vào sử dụng với độ che phủ tăng dần, dự phòng ung thư cổ tử cung vẫn đòi hỏi công tác sàng lọc được thực hiện thường xuyên và rộng khắp. Dựa trên cơ sở các hiểu biết về tác động của HPV lên kiểm soát chu trình tế bào, các test phát hiện ADN HPV, protein tế bào hoặc protein HPV đã được phát triển, đặc biệt các test phát hiện ADN HPV nguy cơ cao đã được nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi trên thế giới. Hybrid Capture II (HCII, Qiagen, Hoa Kỳ) sử dụng phản ứng lai ADN đi kèm với khuếch đại tín hiệu là test được Cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) và Cộng đồng châu Âu cấp phép lưu hành và sử dụng rộng rãi trên thế giới để phát hiện và phân biệt nhiễm bất kỳ týp nào trong số 13 týp HPV nguy cơ cao (16, 18, 31, 33, 35, 39, 45, 51, 52, 56, 58, 59 và 68) với 5 týp HPV nguy cơ thấp (6, 11, 42, 43, 44). Test cobas HPV (Roche, Thụy Sĩ) là test định tính có thể phát hiện và xác định hai type HPV 16 và 18, đồng thời xác định có nhiễm ít nhất một trong 12 type HPV nguy cơ cao còn lại (31, 33, 35, 39, 45, 51, 52, 56, 58, 59, 66 và 68). Nhiều thử nghiệm với cỡ mẫu lớn gần đây đã chỉ ra rằng xét nghiệm ADN HPV có giá trị chẩn đoán không thấp hơn tế bào cổ tử cung trong phát hiện các tổn thương CIN2+. Đồng thời với tế bào học, xét nghiệm HPV đã trở thành xét nghiệm sàng lọc sơ cấp dành cho phụ nữ độ tuổi 30 trở lên và đang trên đường trở thành một xét nghiệm sàng lọc độc lập cho các phụ nữ từ 25 tuổi trở lên. Sự xuất hiện của các loại test HPV đơn giản hơn và có chi phí chấp nhận được như careHPV (Qiagen, Hoa Kỳ) trong tương lai gần, phối hợp với phương pháp soi cổ tử cung hoặc quan sát cổ tử cung với acid acetic sẽ cho phép triển khai các chiến lược tiếp cận mới với độ che phủ cao hơn và đạt được mục đích phát hiện – chẩn đoán – điều trị một cách hữu hiệu hơn.
#xét nghiệm HPV #ung thư cổ tử cung #dự phòng
THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, VỀ UNG THƯ CỔ TỬ CUNG VÀ DỰ ĐỊNH PHÒNG NGỪA CỦA SINH VIÊN ĐIỀU DƯỠNG NĂM THỨ NHẤT TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI NGUYÊN NĂM 2018
TNU Journal of Science and Technology - Tập 194 Số 01 - Trang 27-34 - 2019
Mục tiêu: Đánh giá kiến thức, thái độ về ung thư cổ tử cung, dự định phòng ngừa của sinh viên điều dưỡng năm thứ nhất tại Trường Đại học Y Dược, Đại học Thái Nguyên năm 2018. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 132 sinh viên nữ năm thứ nhất Khoa Điều dưỡng Trường Đại học Y Dược, Đại học Thái Nguyên. Đối tượng nghiên cứu được khảo sát dựa trên bộ câu hỏi tự điền. Kết quả: Điểm thái độ của đối tượng nghiên cứu là 30,8 ± 4,3 (Min = 16, Max = 40), điểm kiến thức là 10,9 ± 2,9, trong đó có phân loại Không đạt có 58 đối tượng, Đạt 74 đối tượng. Về Dự định tiêm phòng có 80 đối tượng dự định sẽ tiêm phòng và 52 đối tượng chưa có dự định tiêm phòng. Có mối tương quan thuận giữa kiến thức và thái độ (p<0,05). Các biến “Đã nghe về ung thư cổ tử cung”, “Ung thư cổ tử cung có thể phòng ngừa được bằng vắc xin”, “nhiễm HPV là nguy cơ gây ung thư cổ tử cung”, “Phụ nữ bị các bệnh lây truyền qua đường tình dục có nguy cơ ung thư cổ tử cung cao hơn” là các biến dự đoán khả năng đối tượng nghiên cứu sẽ có khả năng tiêm phòng.
#Cervical cancer knowledge #screening methods #prevention and risk factors #Attitude toward cervical cancer and preventive measures #Intended vaccination for HPV;
Sàng lọc tổn thương tiền ung thư và ung thư cổ tử cung bằng xét nghiệm tế bào cổ tử cung
Tạp chí Phụ Sản - Tập 11 Số 1 - Trang 50-59 - 2013
Mục tiêu: Đề tài này nhằm xác định tỷ lệ bất thường và giá trị chẩn đoán của xét nghiệm tế bào cổ tử cung trong sàng lọc tổn thương tiền ung thư và ung thư cổ tử cung. Đối tượng và phương pháp: Mô tả cắt ngang trên 1.139 phụ nữ trong độ tuổi sinh sản ở 11 xã/phường thuộc 3 huyện thị đại diện cho 3 vùng địa lý gồm huyện Phú Vang, huyện Nam Đông và thành phố Huế trong thời gian từ tháng 03 năm 2011 đến tháng 08 năm 2012. Những trường hợp có kết quả tế bào học cổ tử cung bất thường sẽ được mời tái khám tại Bệnh viện để soi cổ tử cung và sinh thiết nếu có chỉ định. Các thông số nghiên cứu liên quan đến tỷ lệ bất thường tế bào và giá trị chẩn đoán của tế bào học. Kết quả: Tuổi trung bình của phụ nữ được khám sàng lọc là 37,3±7,4. Nguy cơ tế bào học dương tính tăng dần theo tuổi đời và số lần mang thai. Kết quả VIA ghi nhận 88 trường hợp (chiếm 7,7%) tổn thương cổ tử cung bất thường và nghi ngờ ung thư. Tỷ lệ tỷ lệ phát hiện tổn thương tiền ung thư và ung thư cổ tử cung qua xét nghiệm tế bào cổ tử cung là 5,44%, trong đó chẩn đoán ASCUS/H: 3,07%, AGUS: 0,96%, LSIL: 1,14% và HSIL: 0,26%. Giá trị chẩn đoán của xét nghiệm tế bào cổ tử cung có độ nhạy 72,7%; độ đặc hiệu 71,4%; độ chính xác 72,2%; giá trị tiên đoán dương 80,0% và giá trị tiên đoán âm 62,5%. Kết luận: Xét nghiệm tế bào học trong việc phát hiện các tổn thương tiền ung thư và ung thư cổ tử cung có độ nhạy và độ đặc hiệu khá cao nên có thể áp dụng trong sàng lọc trên diện rộng cộng đồng, cũng như ở các phòng khám chuyên khoa. Tuy nhiên tỷ lệ âm tính giả còn cao nên cần phối hợp nhiều biện pháp khác nhau và có thể chỉ định lặp lại xét nghiệm tế bào học để tăng hiệu quả sàng lọc nếu các phương pháp sàng lọc khác không có sẵn.
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VỀ PHÁT HIỆN SỚM UNG THƯ CỔ TỬ CUNG CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI NĂM 2020 VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 521 Số 2 - 2022
Ung thư cổ tử cung là ung thư phổ biến thứ 4 ở nữ giới trên thế giới và đứng thứ 8 ở Việt Nam. Nhân viên y tế đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục hướng dẫn cho bệnh nhân nếu họ có đủ kiến thức và thái độ đối với việc phát hiện sớm ung thư cổ tử cung. Nghiên cứu này điều tra kiến thức và thái độ của trên 1000 sinh viên trường đại học Y Hà Nội năm 2020 và một số yếu tố liên quan. Kết quả: Mặc dù phần lớn sinh viên y khoa có kiến thức tốt (88.2%) về kiến ​​thức chung về ung thư cổ tử cung, nhưng sinh viên vẫn nhầm lẫn về khoảng thời gian khám sàng lọc của các nhóm đối tượng. Sinh viên cũng có thái độ tích cực (94.5%) đối với việc phòng chống ung thư, nhưng lại không tự tin để tư vấn cho người quen của mình. Một số yếu tố liên quan với kiến ​​thức không đầy đủ của sinh viên bao gồm điểm trung bình học tập, tôn giáo, tình trạng mối quan hệ, nơi sống và biết người mắc ung thư cổ tử cung trong khi một số yếu tố liên quan với thái độ tiêu cực về phòng chống ung thư cổ tử cung bao gồm tình trạng mối quan hệ, nơi sống và thiên hướng tình dục. Với sự can thiệp kịp thời, ban giám hiệu trường đại học có thể nâng cao kiến ​​thức và thái độ của sinh viên y khoa bằng cách cập nhật chương trình giảng dạy, tổ chức nhiều hoạt động tư vấn tình nguyện dựa vào cộng đồng, do đó, giảm tỷ lệ ung thư cổ tử cung.
#Phát hiện sớm #ung thư cổ tử cung #sàng lọc #kiến thức #thái độ #sinh viên y khoa.
ĐÁNH GIÁ MỐI LIÊN QUAN GIỮA TỶ LỆ NHIỄM HPV VÀ KẾT QUẢ TẾ BÀO HỌC Ở PHỤ NỮ KHÁM SÀNG LỌC UNG THƯ CỔ TỬ CUNG TẠI MỘT SỐ BỆNH VIỆN KHU VỰC HÀ NỘI NĂM 2022 - 2023
Tạp chí Y - Dược học quân sự - Tập 48 Số 7 - Trang 113-124 - 2023
Mục tiêu: Xác định mối liên quan giữa tỷ lệ nhiễm các kiểu gen HPV và kết quả tế bào học bất thường ở phụ nữ khám sàng lọc ung thư cổ tử cung (UTCTC). Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 106 phụ nữ khám sàng lọc tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội và Học viện Quân y có kết quả tế bào học cổ tử cung bất thường, được định kiểu gen HPV bằng phương pháp Multiplex - PCR & Nested - PCR. Kết quả: Trong số 106 đối tượng nghiên cứu, 104 trường hợp (98,1%) có tổn thương tế bào cổ tử cung, phổ biến nhất là tổn thương tân sinh nội biểu mô cổ tử cung. Khi xác định kiểu gen HPV, chúng tôi thu được 77/106 kết quả dương tính với HPV, 66 trường hợp dương tính với ít nhất 1 kiểu gen HPV. 60/77 (77,9%) kết quả dương tính với loại HPV nguy cơ cao (thường gặp nhất là HPV 16). Hai trường hợp được chẩn đoán lâm sàng ung thư biểu mô tế bào vảy cổ tử cung dương tính với loại HPV 18 và HPV 11; phát hiện 10 trường hợp dương tính với các kiểu gen HPV không thuộc các loại được khảo sát. Kết luận: HPV 16 là kiểu gen phổ biến nhất trong các mẫu bệnh phẩm tế bào học cổ tử cung bất thường, ngoài ra phát hiện được kiểu gen 18 và 11 ở bệnh nhân (BN) được chẩn đoán ung thư trên lâm sàng.
#Ung thư cổ tử cung #Tế bào học bất thường #Human papillomavirus
Cung cấp dịch vụ phòng ngừa ung thư cổ tử cung ở Bắc Uganda: một cuộc khảo sát các nhân viên y tế tại các trung tâm y tế nông thôn Dịch bởi AI
BMC Health Services Research - Tập 21 - Trang 1-13 - 2021
Ung thư cổ tử cung là loại ung thư hàng đầu ở phụ nữ Uganda, chiếm 40% tổng số trường hợp ung thư được ghi nhận trong sổ đăng ký ung thư. Nhận thấy tác động to lớn của ung thư cổ tử cung đối với phụ nữ Uganda, Bộ Y tế đã phát động Kế hoạch Chiến lược phòng ngừa và kiểm soát ung thư cổ tử cung vào năm 2010. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định xem các nhân viên y tế làm việc tại các trung tâm y tế nông thôn (HCs) III và IV ở miền Bắc Uganda có cung cấp dịch vụ sàng lọc ung thư cổ tử cung như được khuyến nghị trong Kế hoạch Chiến lược hay không. Một cuộc khảo sát cắt ngang sử dụng bảng hỏi có cấu trúc đã được thực hiện đối với các y tá, nữ hộ sinh và viên chức lâm sàng làm việc tại các HCs III và IV ở miền Bắc Uganda. Dữ liệu được nhập vào Epidata 3.1 và phân tích bằng phần mềm thống kê Stata 16. Các phân tích đơn biến, đôi biến và đa biến đã được thực hiện. Bất kỳ yếu tố nào có giá trị p ≤ 0.05 được coi là dự đoán có ý nghĩa cho kết quả. Chúng tôi đã khảo sát 286 nhân viên y tế. Năm mươi mốt (18%) nhân viên y tế đang sàng lọc phụ nữ cho ung thư cổ tử cung. Năm mươi tám (21%) nhân viên y tế có hướng dẫn về sàng lọc ung thư cổ tử cung tại HCs của họ, 93 (33%) người tham gia đã được đào tạo để sàng lọc phụ nữ cho ung thư cổ tử cung. Hai trăm sáu mươi hai (92%) người tham gia đã cung cấp vắc-xin HPV. Hai trăm bốn mươi sáu (87%) người tham gia đang thực hiện giáo dục sức khỏe về ung thư cổ tử cung tại HCs của họ. Các yếu tố liên quan đến việc sàng lọc phụ nữ cho ung thư cổ tử cung bao gồm: là nhân viên tại HCs III (AOR = 0.30, 95% CI 0.13–0.68, p = 0.00), là nhân viên của HCs có tổ chức hỗ trợ dịch vụ sàng lọc ung thư cổ tử cung (AOR = 4.38, 95% CI 1.99–9.63, p=0.00), là nhân viên y tế đã được đào tạo để sàng lọc ung thư cổ tử cung (AOR = 2.21, 95% CI 1.00–4.90, p = 0.05) và nhân viên từ HCs có hướng dẫn về sàng lọc ung thư cổ tử cung (AOR = 2.89, 95% CI 1.22–6.86, p = 0.02). Nghiên cứu này cho thấy một vấn đề cấu trúc tổng thể liên quan đến việc cung cấp dịch vụ sàng lọc ung thư cổ tử cung tại HCs III và IV ở miền Bắc Uganda mà Kế hoạch Chiến lược chưa giải quyết. Những vấn đề cấu trúc này cần được chú ý khẩn cấp nếu chính phủ Uganda và các quốc gia khác ở châu Phi cận Sahara (SSA) muốn thực hiện mục tiêu 90–70–90 của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) vào năm 2030 để tiến tới việc loại bỏ ung thư cổ tử cung.
#ung thư cổ tử cung #nhân viên y tế #sàng lọc #phòng ngừa #Uganda
Kết quả xét nghiệm tế bào cổ tử cung và HPV-DNA ở bệnh nhân điều trị tổn thương cổ tử cung tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương
Tạp chí Phụ Sản - Tập 22 Số 4 - Trang 88-92 - 2024
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả sàng lọc ung thư cổ tử cung bằng tế bào học và xét nghiệm HPV-DNA tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu mô tả cắt ngang trên 537 bệnh nhân có tổn thương tiền ung thư và ung thư cổ tử cung từ tháng 01/2023 đến tháng 10/2023. Dữ liệu được xử lý bằng SPSS 16.0. Kết quả: Xét nghiệm tế bào học phát hiện 71,6% các tổn thương từ CIN 2 trở lên, trong khi xét nghiệm HPV-DNA phát hiện 97,9%. Kết hợp cả hai phương pháp đạt độ nhạy 100%. Kết luận: Xét nghiệm HPV-DNA có độ nhạy cao trong phát hiện tổn thương tiền ung thư và ung thư cổ tử cung. Xét nghiệm tế bào có độ nhạy thấp hơn, chỉ đạt tối đa 71,6%. Do vậy nếu chỉ dựa vào xét nghiệm tế bào trong sàng lọc sẽ có nguy cơ bỏ sót các tổn thương này.
#ung thư cổ tử cung #tế bào học #HPV-DNA #sàng lọc
Status of high-rick human papilomavirus infected among women with cervical intraepithelial neoplasia or women
Tạp chí Phụ Sản - Tập 15 Số 2 - Trang 125 - 129 - 2017
Mục tiêu: Đánh giá vai trò của nhiễm HPV nguy cơ cao ở những phụ nữ bị tổn thương tiền ung thư hoặc ung thư cổ tử cung được khám và chẩn đoán tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương. Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang đã được thực hiện trên 544 phụ nữ có tuổi từ 19-67. Thời gian từ tháng 10- 2015 đến hết tháng 3 năm 2017 tại bệnh viện Phụ Sản Trung ương. Định týp HPV bằng hệ thống Cobas ®-4800 và xét nghiệm mô bệnh học. Kết quả: Tuổi trung bình của các đối tượng nghiên cứu 39,2. Tỷ lệ LSIL theo các nhóm tuổi ≤24, 25-34, 35-44 và ≥ 45 lần lượt là 1,4%; 37,8%; 41;9% và 18,9%. Tỷ lệ HSIL theo các nhóm tuổi ≤24 , 25-34, 35- 44 và ≥ 45 lần lượt là 1,5%; 19,7%; 47,0% và 31,8%. Tỷ lệ ung thư cổ tử cung theo các nhóm tuổi ≤24, 25-34, 35-44 và ≥ 45 lần lượt là 1,9%; 16,7%; 40,7% và 40,7%. Trong số 195 phụ nữ bị tổn thương bất thường cổ tử cung có 151 người nhiễm hrHPV (chiếm 77,4%). Trong đó 30,5% nhiễm HPV16, 13,9% nhiễm HPV18, 35,8% nhiễm 12 týp hrHPV. Tỷ lệ đồng nhiễm hơn 2 týp hrHPV chiếm 19,8%. Có mối liên quan chặt chẽ giữa nhiễm các týp hrHPV với các tổn thương LSIL, HSIL và ung thư cổ tử cung có ý nghĩa với tỷ suất chênh (OR) lần lượt là 3,2; 7,3 và 16,1. Kết luận: Tỷ lệ tổn thương LSIL và HSIL giảm dần ở những phụ nữ lớn tuổi. Tỷ lệ ung thư cổ tử cung tăng theo tuổi của phụ nữ. Có mối liên quan chặt chẽ giữa nhiễm hrHPV với các tổn thương bất thường ở cổ tử cung.
#Sàng lọc ung thư cổ tử cung #tổn thương nội biểu mô độ thấp/cao #mô bệnh học #vi rút gây u nhú người nguy cơ cao #xét nghiệm phân tử HPV.
Tổng số: 22   
  • 1
  • 2
  • 3